Giải đáp về dụng cụ bóng bàn của chuyên gia
Tin tức

Giải đáp về dụng cụ bóng bàn của chuyên gia

Đăng: 09/03/2019 bởi Admin.

Kiến thức từ một  chuyên gia của hãng Butterfly

Taisei Imamura (45t – tính đến năm 2003, khi tạp chí Tin tức Butterfly số 1 ra đời - ND) làm việc cho hãng Butterfly từ năm 1980. Là một người làm công tác dịch vụ, ông chăm sóc các hợp đồng giữa Butterfly và những khách hàng trên toàn thế giới và hoạt động mạnh mẽ trong lĩnh vực phát triển các sản phẩm mới. Mọi người coi ông là một trong những chuyên gia tốt nhất và giàu kinh nghiệm nhất về nguyên vật liệu (thiết bị bóng bàn - ND). Họ tin tưởng vào lời khuyên của ông và - như tất cả những người chơi bóng bàn thường làm - Hỏi đi hỏi lại cùng một câu : "Cốt vợt nào và những loại mặt mút nào là tốt nhất để tôi chơi? ". Trong cuộc trò chuyện với "Tin tức Butterfly" Taisei Imamura đã đưa ra nhiều lời khuyên, các thông tin và ý tưởng về "Vợt – các nguyên vật liệu".

Phần 1: Phông / Cốt - "linh hồn" của cây vợt
(5/2003)


Cho phép bắt đầu nói chuyện trước hết với một vấn đề chủ yếu, phông vợt. Ông không xem nó như là điểm rất cốt yếu trong khi lựa chọn một cây vợt tốt nhất?

Thực sự - Phông là linh hồn của cây vợt. Tất nhiên việc lựa chọn các mặt vợt phù hợp cũng rất quan trọng và chương trình về các loại mặt vợt của chúng tôi sẽ cung cấp một loạt các giải pháp đa dạng để tối ưu hóa những sở thích cá nhân. Các cầu thủ vẫn cần đặt sự tập trung của mình vào việc lựa chọn một chiếc phông vợt tốt nhất cho mình.

Điều này nghe có vẻ đơn giản, nhưng trong thực tế các cầu thủ phải đối mặt với nhiều vấn đề. Xem xét hàng loạt các phông vợt khác nhau có sẵn trên thị trường không chỉ được sản xuất bởi hãng Butterfly, mỗi cầu thủ gặp rất nhiều khó khăn để quyết định. không thể kiểm tra tất cả các loại phông mang tính cá nhân và càng nhiều rối rắm hơn khi muốn có 1 lựa chọn hoàn hảo. Vậy, tùy chọn nào mà người chơi có khi lựa chọn phông vợt?

Đó là một câu hỏi khó và không thể được trả lời chung. Để tư vấn cho một cầu thủ một cách hoàn hảo tôi phải biết anh ta và xem anh ta chơi bóng. Đối với tôi, quyết định là ở hai câu hỏi. Đầu tiên là vấn đề khoảng cách đến bàn: anh ta chơi gần bàn hay xa bàn? Câu hỏi thứ hai liên quan đến sức mạnh của các cú đánh tấn công của anh ta. Ví dụ cầu thủ đó thích chơi ở một cự ly có thể thay đổi độ xoáy và nhiều biến hóa về tốc độ và xoáy với lực nhỏ? Hay anh ta có xu hướng chơi gần bàn, chơi theo lối công tkích và sử dụng các cú đánh xoáy, nhanh với rất nhiều sức mạnh? Hay anh ta thậm chí chơi theo kiểu tấn công không thương tiếc với lực tối đa trong các cú đánh của mình? Tất cả những thông tin này rất cần thiết để đưa ra một khuyến nghị hoàn hảo cho người chơi. Đây là lý do tại sao huấn luyện viên lại đóng một vai trò quan trọng trong việc lựa chọn các vật liệu.

Nhiều khi các cầu thủ không có huấn luyện viên, những người có thể đưa ra những tư vấn tốt về vật liệu. Họ có thể tìm sự giúp đỡ ở nơi nào khác?

Liên quan đến các loại phông vợt của mình, hãng Butterfly đã phát triển một hệ thống phân loại với bảy cấp: DEF, ALL-, ALL, ALL+, OFF-, OFF, OFF+. Nhờ đó, người chơi có một hướng dẫn ban đầu, phông nào phù hợp với phong cách chơi bóng của anh ta. Tiêu chí thứ hai là trọng lượng. Trong những năm gần đây đã có một xu hướng liên tục là thích phông nhẹ hơn. Điều này chủ yếu là do thực tế, các mặt mút dày hơn và nặng hơn đã được sử dụng trong lối chơi tấn công. Và keo tốc độ cũng đã làm tăng trọng lượng của vợt. Hiện nay trung bình một phông nặng 85 gram. 2 gram nặng hơn hay nhẹ hơn là có thể nhận biết sự khác biệt. Một cây vợt nặng hơn hoàn toàn có thể tạo ra tốc độ bóng cao hơn. Nhưng - và điều này thường bị bỏ qua – một cây vợt nặng hơn sẽ làm chậm hơn các phản ứng của người chơi trong các chuyển động. Và tốc độ tối đa của vợt và vì thề gia tốc của vợt sẽ chậm. Đây không phải là vấn đề đối với các cầu thủ hàng đầu được đào tạo một cách căn bản về hệ thống cơ bắp của họ, mà là đối với những người chơi bóng ở trình độ trung bình và thấp hơn không có kỹ thuật hoàn hảo thì một cây vợt nặng hơn có thể là một bất lợi. Một tiêu chí thứ ba không được đánh giá thấp là câu hỏi: phông vợt là mềm và bám hay cứng?

Ông vừa nói phông "bám"? Không phải độ bám là một đặc trưng chỉ cho các loại mặt vợt?

Vâng, vâng, tôi nói phông "bám". Bằng cách này, tôi muốn nói đến các loại gỗ xây dựng mềm so với các loại cứng hơn. Chúng có thể dễ dàng được phân biệt bởi âm thanh. Giống như khi gõ cửa người ta có thể gõ vào phần trung tâm của phông với ngón trỏ và qua đó tạo ra một âm thanh nhất định. Những phông bám sẽ có âm thanh trầm, đục, những phông cứng có âm thanh thanh, nhẹ hơn. Phông cứng sẽ nhanh hơn và trực tiếp hơn, phông mềm có xu hướng chậm hơn và xoáy hơn. Chúng tôi có nhiều loại phông trong chương trình của mình mà tất cả đều thuộc loại OFF (tấn công – ND) nhưng khác nhau về độ bám và độ cứng.

Hãy quay trở lại với hai tiêu chí "khoảng cách" và "lực" được đề cập ngay từ đầu. Những phông nào của chương trình của Butterfly ông có thể khuyên dùng cho người chơi xa và gần bàn, loại nào dùng cho người chơi với nhiều lực hoặc ít lực?

Thật khó để đưa ra một câu trả lời đơn giản, nhưng nói chung là các loại phông tấn công cổ điển 5 lớp của chúng tôi – như Petr KOPBEL OFF- là ví dụ - là loại phông tấn công và lại bám, do đó thích hợp để chơi xa bàn và với biến hóa xoáy và cần nhiều cảm giác. Đồng thời, các loại phông carbon như PRIMORAC CARBON OFF+, GERGELY CARBON OFF+, hoặc SCHLAGER CARBON OFF+ là rất cứng và tiếp xúc trực tiếp với bóng. Không phải ai cũng thích cái cảm giác với phông carbon này. Một số người “nguyền rủa” nó. Một cách riêng biệt là những sản phẩm cứng này có thể được đề nghị cho lối đánh đôi công gần bàn. Những người thích phông mềm hơn – và vì thế chậm hơn - có thể bù đắp cho sự tốc độ bằng cách sử dụng mặt mút dày hơn với keo tốc độ.

Ông đề cập đến cảm giác Carbon. Một phông đặc biệt trong chương trình của Butterfly là Timo Boll SPIRIT OFF. Nó được kết hợp các vật liệu Carbon và Arylate. Những đặc tính đặc biệt mà phông này có là gì?

Phông Timo Boll SPIRIT OFF đại biểu cho hạng "trung lưu" trong phân loại các phông tấn công. Carbon cung cấp độ cứng cực đại. Arylate với chỉ 50% lượng Carbon sẽ mềm hơn. So với series phông Carbon OFF + thì loạt phông này là một ý tưởng chậm hơn, do đó có cảm giác tốt hơn trong khi việc thiếu lực tại điểm tiếp xúc với quả bóng được giảm tối thiểu. Và nó là một phông tuyệt vời cho ai sử dụng keo tốc độ. Cuối cùng đừng quên rằng phông ổn định hơn mười lần các loại sản phẩm thông thướng. Nhìn chung đây là một phông tấn công rất thú vị cho lối đánh hiện đại dựa trên cơ sở tạo xoáy - và nếu gắn bó với phông này lâu dài. Vì thế chắc chắn đây là một phông vợt được nhiều người mong đợi.

 

Phần 2: Vật liệu của nhà vô địch thế giới
(7/2003)


Taisei Imamura chăm sóc các hợp đồng giữa Butterfly và khách hàng trên toàn thế giới và làm việc rất tích cực trong việc phát triển sản phẩm của hãng. Với các cầu thủ, ông được coi là một trong những chuyên gia tốt nhất và giàu kinh nghiệm về nguyên vật liệu. "Werner Schlager vô địch thế giới chơi với vợt gì?" là một trong những câu hỏi liên tục được nghe thấy và do đó Taisei Imamura sẽ cung cấp các thông tin về vật liệu của nhà vô địch.

Nhiều người muốn biết nhà vô địch thế giới Werner Schlager đã sử dụng vật liệu gì. Ông có thể tiết lộ bí mật?

Tất nhiên. Vợt của anh ta là của riêng anh ta, Carbon Schlager OFF+ cán đuôi cá. Cả hai mặt anh ấy đều chơi mút Bryce với độ dày 2,1 mm, bên trái tay có màu đen, bên thuận tay màu đỏ.

Và ông có thể cho chúng tôi biết keo Butterfly nào mà anh ta sử dụng làm keo tăng lực cho các mặt mút của mình?

Với Fair-Chack.

Bryce là một mặt mút HIGH TENSION có phù hợp với keo tốc độ?

Tất nhiên, Bryce có thể được dán keo (tăng lực – ND) một cách hoàn hảo. Sau khi dán nó đạt đến tốc độ tối đa của nó và tạo xoáy tốt. Bạn có thể hình dung rằng một mặt mút đã được tích hợp sẵn hiệu ứng tăng lực - và không có gì khác chính là bởi công nghệ HIGH TENSION - sẽ trở nên vô cùng nhanh và xoáy khi bổ xung thêm keo tăng lực.

Trong cùng thời gian đó Bryce được sử dụng bởi nhiều ngôi sao của Butterfly như Kalinikos Kreanga hoặc Tamara Boros, cả hai đều đứng hạng 3 giải Cúp thế giới. Nhà vô địch Olympic năm 2000 và hạng 3 Cúp thế giới Kong Linghui cũng như Trinko Keen chơi Bryce bên trái tay của họ, Michael Maze chơi bên thuận tay. Và Chaing Peng-Lung và Ryu Seung Min cũng như các cầu thủ tuyển quốc gia Đức Bastian Steger và Lars Hielscher đều tin tưởng vào nó. Bryce gia nhập thị trường vào năm 1997, tại sao nó phát triển lên một đỉnh cao về mút trong một khoảng thời gian ngắn như vậy?

Từ cuối những năm 90 – sự liên kết giữa các công ty khác nhau đã mang đến một thế hệ mới các loại mặt mút trên thị trường, các loại mút đã được tích hợp sẵn keo tăng lực hoặc hiệu ứng “phóng”. Chúng tôi cũng đã làm việc về vấn đề này một cách tích cực. Với Bryce và Catapult chúng tôi sau đó cho ra đời hai mặt mút có hiệu ứng này - chúng tôi gọi nó là HIGH-TENSION. Catapult chậm hơn một chút, mềm hơn, phiên bản Bryce cứng hơn, nhanh hơn. Bryce được nhiều fan hâm mộ trong số các cầu thủ hàng đầu. Nó đã có thể thuyết phục được những cầu thủ hàng đầu khó tính và điều này khiến chúng ta có thể tự hào. Và: Bryce còn được chơi bởi nhiều cầu thủ đẳng cấp thế giới ở châu Á và châu Âu không ký hợp đồng với chúng tôi.

Những gì mà một cầu thủ "bình thường" chờ đợi khi thay đổi từ SRIVER 2,1 mm sang Bryce 2,1 mm?

Tốc độ rõ ràng là cao hơn! Người ta nhận định rằng các cú giật bằng mặt Bryce có đường cong bóng bay thấp hơn. Biến đổi trong tốc độ và xoáy với SRIVER có thể như với Bryce, nhưng về mặt kỹ thuật thì khó hơn nhiều. Các chuyển động giật bóng của cánh tay luôn luôn hướng về phía trước. Sau đó nó sẽ phát huy tốc độ của nó. Những ngưới thích bắt đầu với cú giật nhẹ nhàng hơn, chậm hơn hoặc chơi cú chặn xoáy như Timo Boll thì nên găn bó với SRIVER. Cũng thế với những người thích chặn bóng. Bryce là rất trực tiếp và có tính công kích và rất tốt cho việc đè ép bóng hoặc đẩy bóng. Nó rất thú vị cho người chơi muốn tạo áp lực gần bàn.

Nhưng Werner Schlager và Kalinikos Kreanga thực sự không phải là những người chơi bóng gần bàn, thay vì thế họ lại có xu hướng tạo áp lực tuyệt vời từ khoảng cách trung bình?

Điều này là đúng. Nhưng nhìn kỹ bạn sẽ thấy rằng cú giật của họ luôn luôn sử dụng tốc độ cao - không nhiều xóay và biến hóa như Timo Boll thường làm.

Những mặt mút đã được tích hợp keo dán luôn tự quảng cáo với "âm thanh" của mình: "Đó là âm thanh thể hiện hiệu ứng keo dán ...”. Bryce không có âm thanh này khi không dán và ít khi có dán keo tăng lực. Vậy, mặt mút HIGH-TENSION sẽ không có?

Vẫn còn, vẫn còn, đây là việc rất khó. Âm thanh keo dán được gây ra bởi miếng lót mềm và lớp bề mặt cao su. Nhiều cầu thủ hàng đầu chơi tấn công không thích các mút mềm. Đối với tốc độ cao khi chơi ở trình độ đỉnh cao, bạn cần độ cứng cao hơn. Vì vậy chúng tôi lựa chọn bố trí HIGH TENSION cứng cho Bryce đáp ứng các yêu cầu của thể thao đỉnh cao. Và hôm nay sau gần sáu năm, chúng tôi biết đó là sự lựa chọn đúng cho không chỉ đối với các cầu thủ hàng đầu đến với Bryce. Và những người không thích độ cứng này sẽ có hai thay thế HIGH-TENSION mềm hơn với mút Catapult và Cermet. Trong khi đó số liệu bán hàng của chúng tôi cho thấy chương trình HIGH-TENSION với Bryce như là một sản phẩm dẫn đầu đã được khẳng định ngay sau thế hệ SRIVER thành công và do đó đã tìm thấy nhiều bạn bè trong thị phần nghiệp dư.

Như vậy, cuối cùng độ cứng đã quyết định tốc độ?

Vâng, trong các phòng thí nghiệm của mình, chúng tôi đã mở rộng các quá trình đo đạc, mà với chúng, chúng tôi có thể xác định độ cứng của miếng lót và phần mặt trên cùng một cách chính xác. Sự kết hợp giữa các lớp bề mặt cứng hơn với lớp lót mềm hơn và ngược lại đã tạo ra sự đa dạng của các loại mặt vợt được cung cấp.

Và độ cứng cón có những tác động khác bên cạnh một tốc độ cao hơn đáng kể?

Chắc chắn là như thế, các mặt vợt cứng hơn rất nhạy cảm với xoáy. Các mặt mềm hơn sẽ hấp thụ nhiều chuyển động quay khi tiếp xúc với bóng đến. Các cú đánh sai có nhiều lý giải dễ dàng. Lợi thế tốc độ cao sẽ đem đến sự bất lợi dễ bị tổn thương hơn bởi xoáy. Mỗi người chơi phải tự mình quyết định những gì là quan trọng hơn đối với bản thân. Rõ ràng là: Bryce là không thích hợp cho những người mới bắt đầu. Là một trong những mặt mút nhanh nhất trên thế giới, nó đòi hỏi sự tập luyện thường xuyên và một cảm giác bóng tốt, vì điều đó cho phép ít sai sót. Và một lần nữa cần chỉ ra: Ai chơi Bryce thì cần tìm hiểu lối chơi tấn công mạnh mẽ gần bàn! Và một pha nhất định nào đó thích ứng cần thiết một cú giật có đường bay khác lạ, thấp hơn. Vì vậy, đừng bỏ cuộc sau lần thử đầu tiên nếu mọi thứ không diễn ra tốt đẹp.

Hãy nói về phông vợt của Werner Schlager, cây Werner Schlager Carbon OFF +. Nó có thực sự là phông Butterfly nhanh nhất như đã được đề cập trong các quảng cáo?

Không nghi ngờ gì. Lớp gỗ ngoài cùng của Schlager OFF+ là loại gỗ cứng. Lớp này được làm từ loại gỗ Cyprus ở Bắc Mỹ, một loại thông, nó nặng hơn một chút so với gỗ Hinoki của Nhật Bản. So với Carbon Primorac OFF+ sử dụng gỗ Hinoki làm lớp ngoài cùng, thì cây Schlager Carbon OFF+ được nhìn nhận là nhanh hơn và nặng hơn một chút. Đây là cây vợt tuyệt vời dành cho lối đánh tấn công nhiều xoáy tích cực ở gần bàn và tìm kiếm những cú giật nhanh và đôi công xoáy, kiểu như Werner Schlager, Kalinikos Kreanga hoặc Tamara Boros.

Và phông và các mút phù hợp hoặc là một "combo Schlager" đặc biệt?

Không, tôi tin rằng các loại mặt Bryce và các loại phông với công nghệ Carbon của chúng tôi là sự phối hợp hoàn hảo.

Phần 3 : High Tension – Sức mạnh cho mọi sở thích
(11/2003)


Thưa ông Imamura, năm 1997 Butterfly cho lưu hành mặt BRYCE như là mặt vợt đầu tiên của thế hệ mới HIGH TENSION. Khi ấy chương trình bao gồm 3 loại mút được tích hợp hiệu ứng căng sẵn: Bryce FX, CERMET và CATAPULT. Sự khác biệt cụ thể giữa các mắt mút nàu là gì?

BRYCE và BRYCE FX có một bề mặt giống hệt nhau, trong khi CERMET và CATAPULT mỗi loại có hỗn hợp của riêng mình. Các lớp bề mặt khác nhau trước hết về độ cứng, thứ hai là ở độ dày của các chân gai bên trong. Điều này dẫn đến các đặc tính khác nhau.

Loại nào trong số chúng có bề mặt cứng nhất?

Chắc chắn là BRYCE. Với mút này, bạn có thể chơi với tốc độ khủng khiếp ngay cả khi ở khoảng cách xa bàn; Không nghi ngờ gì nó là mặt mút HIGH TENSION nhanh nhất. Ở gần bàn, bạn sẽ nhận ra sự khác biệt lớn với các loại mút HIGH TENSION khác.

Và làm thế nào để BRYCE và BRYCE FX khác nhau?

BRYCE FX có miếng lót mềm hơn so với BRYCE. Điều này làm cho nó chậm hơn 1 chút, nhưng do vậy mà tác dụng của keo tốc độ tích hợp sẵn sẽ có hiệu quả hơn.

Điều đó có nghĩa là xoáy nhiều hơn?

Không, bạn không thể nói như thế. Nếu bạn đang ở gần bàn hơn thì sẽ dễ dàng hơn để chơi với BRYCE FX. Keo tốc độ có tác dụng làm cho bạn – nói theo nghĩa đen - "mù" đối với xoáy của bóng đến, do đó ít bị tổn thương. Tất nhiên điều này dẫn đến ít sai sót.

Vậy thì tại sao rất nhiều các ngôi sao hàng đầu như nhà vô địch thế giới Werner Schlager, vô địch Olympic Kong Linghui, thứ ba WCC Kalinikos Kreanga hoặc nữ VĐV hay nhất châu Âu, Tamara Boros lại sử dụng mặt BRYCE?

Bởi vì họ thường xuyên phải chơi ở ngoài cự ly trung bình, sẽ được hỗ trợ bởi BRYCE cứng hơn tạo ra tốc độ cao ngay cả ở cự ly đó. Họ cần độ cứng cho áp lực của họ, trong lớp bề mặt cũng như trong lớp lót. Hơn nữa họ có một tốc độ rất lớn trong các cú đánh của mình, cần phải có được tốc độ nảy ra của mặt mút. Trong bối cảnh như thế, tôi muốn đề cập đến một sự so sánh. Nói chung người ta nói rằng mặt mút với miếng lót dày hơn là nhanh hơn so với một mặt mút có miếng lót mỏng hơn. Điều này không thể nói vì nó phụ thuộc vào kỹ thuật và tốc độ của các cú đánh của người đang sử dụng mặt mút. Những vận động viên trẻ chơi BRYCE nhưng chưa có tốc độ cần thiết trong các cú đánh của họ thì vẫn có thể có khả năng chơi nhanh hơn khi sử dụng SRIVER FX.

Hãy nói về CERMET và CATAPULT. Chúng có thể được so sánh với BRYCE và BRYCE FX như thế nào?

Bề mặt mút của CERMET mềm hơn so với BRYCE và BRYCE FX. Do đó tốc độ ban đầu là thấp hơn một chút, vì bóng đi sâu hơn vào mặt mút và lưu lại ở đó lâu hơn khi tiếp xúc. CATAPULT thậm chí còn mềm hơn, lớp lót của nó cũng vậy. Do mức độ cao hơn của độ mềm này mà hiệu quả của keo tốc độ tích hợp sẵn với âm thanh đặc biệt của nó là rõ rệt hơn ở CERMET và CATAPULT.

So sánh tất cả bốn loại mút thì có một sự xếp hạng theo độ cứng của chúng từ BRYCE qua BRYCE FX, CERMET đến CATAPULT. BRYCE cứng nhất, CATAPULT mềm nhất. Ông sẽ khuyên ai nên chơi loại mặt HIGH TENSION nào?

Ý kiến của các cầu thủ hàng đầu của chúng ta là tất cả họ đều sử dụng Bryce và Bryce FX bên mặt thuận tay của họ. Khác nhau là ở bên mặt trái tay. Những cú đánh đặc biệt gần bàn là ngắn hơn và do đó một số thích CERMET và CATAPULT, vì bạn có thể thi triển áp lực rất tốt. Đối với những cầu thủ đẳng cấp thấp hoặc trung bình, tôi thường khuyên: người chơi gần bàn nên sử dụng CATAPULT, CERMET, hoặc BRYCE, ai hoạt động khoảng cách xa và muốn tạo áp lực một cách thận trọng thì sử dụng BRYCE.

Nói chung người ta nói rằng mặt mút được dán keo tăng lực hoặc những loại mặt mút đã được tích hợp sẵn keo tốc độ sẽ có độ kiểm soát ít hơn. Những gì cần nói về các loại mút HIGH TENSION trong cú giao bóng hoặc đẩy nhẹ bóng (gò nhẹ - ND)?

Với cú giao bóng thì độ cứng sẽ quyết định về lượng xoáy mà tôi có thể tạo ra cho quả bóng. Mềm hơn thì sẽ tạo ra nhiều xoáy hơn. Vấn đề là, thật khó để chơi không xoáy với các loại mặt mút rất mềm – chẳng hạn TACKINESS C là loại mặt mút mềm nhất của chúng tôi. Mà những biến hóa của bóng không xoáy của chúng ta là rất cần thiết trong khi thực hiện những cú giao bóng tiên tiến. Với BRYCE "cứng" sẽ dễ dàng hơn để chơi biến hóa như vậy. Khi đẩy bóng thì CATAPULT và BRYCE FX sẽ cho độ kiểm soát nhiều hơn BYRCE. Đặc biệt là khi bắt bóng ngắn thì BRYCE có lợi thế là thời gian tiếp xúc ngắn, khiến cho nó dễ dàng hơn để đánh ngắn quả bóng.

Có thể nói rằng CERMET và CATAPULT trên tất cả là dễ dàng hơn để chơi theo phong cách thiên về kỹ thuật?

Vâng, tôi nghĩ như vậy. Một trong những lý do là quỹ đạo thấp của bóng khi thực hiện cú giật với BRYCE. Tất nhiên bóng do đó sẽ nhanh hơn. Nhưng những người đã tiếp xức với BRYCE nhiều sẽ sớm đánh giá cao đó là lợi thế và sẽ được kích thích.

Với BYRCE, nó được đánh giá một cách rõ ràng rằng nó hoàn toàn thích hợp với keo tốc độ. Không phải đó là một sự mâu thuẫn sao?

Không phải tất cả. Trước hết tác dụng của keo tốc độ đã được tích hợp trong mút là không hoàn toàn giống với keo dán tốc độ thực sự. Tất cả những người sử dụng keo tốc độ đều biết điều này. Ngoài ra các mặt mút HIGH TENSION của chúng tôi có độ cứng khác nhau. BRYCE là cứng nhất, do đó, có ít sức căng so với CATAPULT, là loại mút mềm nhất. Sức căng nhiều được đưa vào loại mặt mút mềm hơn. Do đó bạn sẽ thấy có nhiều tác dụng hơn khi dán tốc độ BRYCE hơn là với CATAPULT hoặc CERMET. Mỗi người chơi có quyết định của riêng mình. BRYCE đã chứng tỏ nó xứng đáng là một mặt mút hàng đầu. Bryce FX, CATAPULT và CERMET cũng đứng vào hàng đầu. Không chỉ là ở hàng đầu, mà trên thị trường cũng rất tốt. Doanh số bán hàng của chúng tôi xác nhận rằng chúng tôi đã đi đúng đường với các loại mút HIGH TENSION của mình.

Như vậy, chương trình HIGH TENSION là một thành công. Những phát triển trong tương lai sẽ mang lại là gì?

Trò chơi Bóng bàn không chỉ có giật và tốc độ. Vì vậy, việc cải tiến các loại mặt mút của chúng tôi sẽ tiếp tục xem xét đến tất cả mọi nhu cầu của trò chơi. Và có nhiều ý tưởng và sáng kiến đang hình thành.

 

Phần 4: Sriver - không thể tin được, nhưng là sự thật
(1/2004)


Thưa ông Imamura, Sriver đã là một trong những mặt mút thành công nhất trên toàn thế giới trong hơn 30 năm, nếu không muốn nói là thành công nhất. Thực sự khó tin khi xem xét những thay đổi trò chơi Bóng bàn đã trải qua không chỉ về mặt kỹ thuật.

Khi chúng tôi đưa ra Sriver nhiều người cho rằng nó quá nhanh và khó kiểm soát. Sự khác biệt thực sự giữa SRIVER với loại mút trước đó, TEMPEST là về tốc độ khủng khiếp của nó. Bước đột phá này được tạo ra bởi các cầu thủ hợp đồng của chúng tôi, Tibor Klampar, Istvan Jonyer và Gabor Gergely. Họ đã cho thấy những gì có thể thực hiện với SRIVER.

Đặc biệt là 3 cựu ngôi sao hàng đầu đã được cải thiện lối chơi giật bóng thuận tay cũng như trái tay rất nhiều.

Đúng là như vậy. Nhưng đừng quên: cả Jacques secretin hoặc Dragutin Surbek và nhiều VĐV khác nữa. Sriver đơn giản là lý tưởng cho lối chơi tấn công mạnh mẽ và biến hóa với xoáy - và ngày nay vẫn vậy. Hãy nhìn Timo Boll. Nhưng có một điểm khác: bộ 3 hàng đầu Hungary bắt đầu dùng keo tốc độ với SRIVER trong năm 1978. Và năm 1979 họ đã trở thành vô địch thế giới, sau khi họ đã đánh bại Trung Quốc trong vòng bảng cũng như trong trận chung kết. Với sự kiện này, ngày "đám cưới" của SRIVER bắt đầu và kéo dài cho đến hôm nay.

SRIVER đặc biệt thích hợp đối với keo tốc độ?

Chắc chắn. Sau giải VĐTG năm 1979, việc sử dụng keo tốc độ liên tục phát triển. Đầu tiên trong đội ngữ VĐV hàng đầu, sau thì ở trình độ nghiệp dư cũng sử dụng nhiều. Nhiều loại mút đã gặp vấn đề khi dùng keo tốc độ, xuất hiện những bong bóng hoặc bị rạn nứt. Với SRIVER nó vẫn sử dụng tốt. Đảm bảo cho điều này là lớp lót, mà là duy nhất và chỉ được sản xuất cho SRIVER. Nhiều người đã cố gắng sao chép miếng lót này, nhưng không ai thành công cho đến nay.

Miếng lót của SRIVER được cho là khá cứng. Đâu là sự khác biệt so với SRIVER EL và SRIVER FX?

Lớp mặt của tất cả ba phiên bản SRIVER đều giống nhau. Sự khác biệt nằm trong miếng lót. Phiên bản FX có miếng lót mềm nhất, SRIVER làcứng nhất và SRIVER EL là ở mức trung bình. Với những sản phẩm này, chúng tôi muốn cung cấp cho người chơi sự lựa chọn để điều chỉnh trang thiết bị tốt hơn và phù hợp cá nhân hơn. Những người thích cảm giác nhiều thì hãy chọn FX, những người cần độ cứng trực tiếp hãy chọn SRIVER và những ai muốn trung dung thì hãy chơi EL.

Có nhiều người hỏi, độ dày “Max” nghĩa là như thế nào?

Khi thêm độ dày của lớp mặt mút và lớp lót để đạt được 3,8 mm. Điều này có nghĩa là lớp lót dày khoảng 2,2 đến 2,3 mm.

Bề mặt SRICE được cho là không bám so với các loại mút "dính" hơn của Trung Quốc.

Điều đó không đúng. Độ bám của mặt mút không chỉ được xác định bởi lơp bề mặt, mà còn bởi sự kết hợp của lớp mặt và cao su. Và bạn phải luôn xác định độ bám của một mặt mút luôn luôn trong mối liên quan với kỹ thuật đánh bóng. Ở một số kỹ thuật thì chủ yếu là lớp bề mặt tác động đến bóng, ví dụ như cú giao bóng bằng cách cắt trên bàn - và lúc này các loại mút dính của Trung Quốc sẽ tạo ra xoáy nhiều hơn. Khi chơi cú giật, đặc biệt là chơi đối xoáy, bóng lún sâu vào mút thì SRIVER sẽ cho nhiều xoáy hơn. Timo Boll và Petr Korbel, cả hai được biết đến với việc chơi xoáy cực kỳ hiệu quả của họ, sử dụng SRIVER bên cả thuận tay và trái tay.

Nhiều người cho rằng SRIVER là loại mút rất bền, có thể được chơi trong một thời gian dài. Xem xét giá cả hiện nay thì đó là một yếu tố quan trọng cho phân khúcchơi bóng nghiệp dư. Điều này là sự thực?

Hiện nay chắc chắn là thế. Khởi đầu chúng tôi cũng có những vấn đề của mình, nhưng điều này lại là một lợi thế, khi mặt mút được sản xuất trong một thời gian dài như vậy. Tất nhiên chúng tôi đã không ngừng cải tiến nó. Đặc biệt là bề mặt đã trở nên bám và đàn hồi hơn và sự lao hóa diễn ra chậm hơn. Và chúng tôi cũng đã thay đổi các gai bên trong. Và Sriver không cần một tấm nhựa bảo vệ để giữ độ bám của nó. Vì vậy, tôi tin rằng các mút của dòng SRIVER là có hoàn hảo về kỹ thuật và rất bền.

SRIVER là một loại mút cho bất cứ ai? Người ta có thể thấy rằng nó được sử dụng ở tất cả các cấp độ kỹ năng và trong tất cả các nhóm tuổi.

Tất nhiên SRIVER là mặt mút cho bất cứ ai. Trong khi đó với SRIVER, SRIVER EL và SRIVER FX là ba kiểu khác nhau trên thị trường, tất cả có các độ dày từ 1,3 mm đến tối đa – đó là một lựa chọn rộng lớn. Và tôi nghĩ rằng đó là một cám dỗ cho các cầu thủ trẻ để chơi bóng với loại mút của thần tượng của bạn. Và rằng Timo Boll sử dụng SRIVER không phải là một lời quảng cáo thương mại mà là một sự thật hoàn toàn.
 

Viết bình luận của bạn: